Anser albifronsAnser anserAnser brachyrhynchusAnser caerulescensAnser canagicusAnser cygnoidesAnser fabalisAnser erythropusAnser indicusAnser rossiiChen
Boie,
1822 (xem văn bản)
Cygnopsis
Brandt,
1836Cycnopsis
Agassiz,
1846 (sửa lỗi)
Eulabeia
Reichenbach,
1852Philacte Bannister,
1870Chi Ngỗng (
danh pháp khoa học:
Anser) bao gồm các loài ngỗng xám và ngỗng trắng. Nó thuộc về phân họ chứa các loài ngỗng thật sự và
thiên nga, với tên khoa học gọi là
Anserinae. Chi này có sự phân bố ở
Bắc bán cầu, với ít nhất 1 loài sinh sản tại bất kỳ môi trường sinh sống ẩm ướt và thưa cây cối cận Bắc cực và
ôn đới lạnh của Bắc bán cầu về mùa hè. Một vài loài còn sinh sản xa hơn về phía nam, đạt tới vùng ôn đới ấm. Chúng chủ yếu di trú về phía nam khi mùa đông tới, thông thường là tới các khu vực vùng ôn đới có
đường đẳng nhiệt trong tháng 1 nằm trong khoảng từ 0 °C (32 °F) tới 5 °C (41 °F). Tên gọi của chúng là ngỗng hay nhạn, với tên gọi nhạn (雁) là sự vay mượn từ
tiếng Trung, đặc biệt sử dụng nhiều trong văn chương.Chi này hiện nay được coi là chứa 10 loài còn sinh tồn. Loài có kích thước lớn nhất là ngỗng xám cân nặng 2,5-4,1 kg (5,5-9 pao) và nhỏ nhất là ngỗng Ross chỉ nặng 1,2-1,6 kg. Tất cả các loài có chân màu hồng hay da cam và mỏ màu hồng, da cam hay đen. Chúng có lông bụng và mặt trên lông đuôi màu trắng, một số loài có các vệt màu trắng trên đầu. Cổ, thân, cánh có màu xám hay trắng, với lông bay chính (và thông thường cả lông bay phụ) màu đen hay ánh đen. Các loài ngỗng "đen" có quan hệ họ hàng gần, thuộc chi
Branta, khác chúng ở chỗ có chân đen và bộ lông nói chung sẫm màu hơn.
[1]